Đây là nội dung Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh nêu trong dự Luật Đất đai chỉnh sửa theo hướng quy định về xem xét công nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất đến trước ngày 1/7/2014.
Sáng 15/1, kỳ họp bất thường lần thứ 5 cho ý kiến về dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi). Đây là lần thứ 4 Quốc hội cho ý kiến về dự án luật này.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh đã thay mặt Ủy ban Thường vụ Quốc hội trình bày báo cáo tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo luật.
Một trong những nội dung đáng chú ý của Luật Đất đai (sửa đổi) là xem xét công nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất đến trước 1/7/2014..
Cụ thể, việc cấp giấy chứng nhận cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có giấy tờ về quyền sử dụng đất, không vi phạm pháp luật về đất đai, không thuộc trường hợp đất được giao không đúng thẩm quyền, ông Thanh nêu rõ dự luật chỉnh sửa theo hướng quy định về xem xét công nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất đến trước ngày 1/7/2014.
Để giải quyết căn cơ vấn đề này, đề nghị Chính phủ có cơ chế, chính sách hỗ trợ thực hiện cấp giấy chứng nhận cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất.
Trước đó, trong dự thảo báo cáo về một số nội dung đối với dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) của Chính phủ gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Chính phủ cho biết, thống nhất với phương án đã thiết kế trong dự thảo luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội gửi kèm công văn ngày 26/12/2023.
Theo đó, quy định thời điểm công nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất, không có giấy tờ về quyền sử dụng đất, không vi phạm pháp luật về đất đai, không thuộc trường hợp giao đất trái thẩm quyền đến trước ngày 1/7/2014.
Tại điều 101 Luật Đất đai hiện hành quy định mốc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu cho trường hợp này là đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 1/7/2004. Như vậy, thời điểm công nhận quyền sử dụng cho đất không có giấy tờ tại dự thảo Luật Đất đai sửa đổi được nới thêm 10 năm so với quy định cũ.
Sau khi nghiên cứu, Chính phủ cơ bản thống nhất với nội dung của dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã được hoàn thiện.
Về tiền thuê đất trả tiền thuê đất hằng năm (khoản 3 Điều 153), Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh nêu rõ, để bảo đảm tính linh hoạt, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong từng thời kỳ, phù hợp với đặc điểm nền kinh tế, nhu cầu thu ngân sách của từng thời kỳ phát triển của đất nước, dự thảo Luật chỉnh sửa theo hướng:
Tiền thuê đất hằng năm được áp dụng ổn định cho chu kỳ 05 năm tính từ thời điểm Nhà nước quyết định cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất gắn với việc chuyển sang hình thức Nhà nước cho thuê đất trả tiền thuê đất hằng năm.
Tiền thuê đất cho chu kỳ tiếp theo được tính căn cứ bảng giá đất của năm xác định tiền thuê đất tiếp theo.
Trường hợp tiền thuê đất tăng so với chu kỳ trước thì tiền thuê đất phải nộp được điều chỉnh nhưng không quá tỷ lệ do Chính phủ quy định cho từng giai đoạn. Tỷ lệ điều chỉnh do Chính phủ quy định cho từng giai đoạn không quá tổng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) hằng năm cả nước của giai đoạn 05 năm trước đó.
Ngoài ra, nội dung về thu hồi đất thực hiện dự án nhà ở thương mại, dự án hỗn hợp nhà ở và kinh doanh thương mại, dịch vụ (tại khoản 27 điều 79) là 1 trong 18 vấn đề đã được thống nhất phương án.
Theo đó, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội và các cơ quan, dự thảo luật quy định theo hướng kế thừa quy định của Luật Đất đai năm 2013, chỉ thu hồi đất để thực hiện dự án nhà ở thương mại, dự án hỗn hợp nhà ở và kinh doanh thương mại, dịch vụ khi là "dự án đầu tư xây dựng khu đô thị".
Về thiết kế kỹ thuật chính sách, quy định tại dự thảo luật làm rõ hơn tính chất của dự án khu đô thị thuộc trường hợp xem xét thu hồi là "dự án đầu tư xây dựng khu đô thị có công năng phục vụ hỗn hợp, đồng bộ hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội với nhà ở theo quy định của pháp luật về xây dựng".
Thiết kế kỹ thuật như vậy, theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ tương tự và đồng nhất với cách thiết kế kỹ thuật tại các khoản khác của điều 79.
Cụ thể, điều 79 chỉ quy định về các trường hợp thu hồi đất thực hiện dự án để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.
Khi thực hiện thu hồi đất đối với các trường hợp quy định tại điều 79 sẽ phải đáp ứng các căn cứ, điều kiện quy định tại điều 80 về "thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng".
Điều 72 về "thẩm quyền quyết định, phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất" đã có quy định trước khi phê duyệt kế hoạch sử dụng đất hằng năm, cấp huyện, UBND cấp tỉnh trình HĐND cấp tỉnh thông qua danh mục công trình, dự án phải thu hồi đất, trong đó có dự án thu hồi đất để đấu giá, đấu thầu.